Thứ Ba, 11 tháng 9, 2012

CẨM NANG DU LỊCH ĐÀ LẠT.


I. Tổng Quan Đà Lạt:
1. Lịch sử hình thành:

Cao nguyên Langbiang (hay Lâm Viên theo cách đọc Việt hóa) vốn là vùng đất bản địa của người dân tộc K’ho (gồm các nhánh như:Lạch, Chil, Sre, String…) cho đến khi các nhà thám hiểm người Pháp bắt đầu chinh phục cao nguyên này. Mà trong những chuyến thám hiểm ấy thì đến nay, ngày 21/6/1893 được coi là ngày bác sĩ – nhà thám hiểm Alexandre Émile Jean Yersin tìm ra Cao Nguyên Langbiang - thành phố Đà Lạt.

Ý nghĩa tên gọi Đà Lạt: 
Riêng người Lạch sống từ chân núi Lang Biang tới thành phố Đà Lạt, chiếm cứ quanh Hồ Xuân Hương. Người Lạch gọi hồ này là hồ nước của người Lạch - Đạ Lạch (tiếng người dân tộc: Đạ cũng như Đak (người Ê Đê, Mnông, Gia Rai ở phía Tây Trường Sơn như Buôn Ma Thuột, Pleiku, Kontum có nghĩa là nước hồ). Vào thời Hán ngữ còn thịnh, những người theo văn hóa Hán Nôm đã nói Đa Lạc (có nghĩa là “nhiều vui thú”).

Y tưởng này trùng hợp (cũng có thể là do ảnh hưởng) với quan điểm của những người Pháp vào đầu thế kỉ XX khi thực hiện dự án xây dựng trung tâm nghỉ dưỡng miền cao này. Trong số người Pháp ấy có người giỏi tiếng La-tinh, có lẽ là giáo sĩ Thiên Chúa giáo. Khi nghe những người lạch gọi Đạ Lạch, những người Pháp ấy nghĩ tới cách chọn cho trung tâm một cái tên có âm thanh tương đồng và có ý nghĩa phù hợp với chức năng trung tâm nghỉ dưỡng bằng cách ghép những chữ cái đầu của một câu châm ngôn gốc La-tinh, để cho tên trung tâm này gần gũi với các tên thành phố Châu Âu. Câu châm ngôn La-tinh ấy là: Dat Alliis Laetitum Alliis Temperriem. Câu này có nghĩa là “cho người này niềm vui, cho người kia mát lành”. Ghép năm chữ đầu của năm từ: D, A, L, A, T, thành DALAT (đối chiếu với chữ Đa lạc theo Hán văn thì trùng âm, tùng ý là những niềm vui thú).

Hoàng Hôn nhuộm trời phố hoa...

Hai cách diễn giải kể sau không được chấp nhận của những nhà nghiên cứu văn hóa và dân tộc học, vì đó là cách nhằm thi vị hóa mục tiêu khai sinh một trung tâm nghỉ dưỡng du lich da lat dành riêng cho giới quan chức Pháp trong mùa hè, không xác đáng với ý nghĩa trong thực tế.
Theo bài báo “Sự khai sinh của Dalat” (Naissance de Dalat) của tác giả Baudrit, đăng trong tạp chí Đông Dương (Revue Indochine) số 180 vào tháng 2 năm 1944 thì Baudrit đã phỏng vấn viên công sứ đầu tiên của thành phố là Cunhac về khái niệm Da Lat thì Cunhac đã trả lời:
À la place du lac coulait le petit ruisseau de la tri bu des Lat et quon appelait “DaLat” (Da ou Dak: eau en moi). Có nghĩa là: Nơi hồ nước có dòng suối nhỏ của bộ tộc Lat chảy qua, người ta gọi là “Đạ Lạt”. Theo tiếng người Thượng, Đạ hay Đak nghĩa là nước. Sự trả lời này có tính khẳng định vào thời kì cách đây hơn 60 năm.


Sự sống luôn Đông Đầy!

Quá trình phát triển
Với nhu cầu tìm một vùng đất có khí hậu ôn hòa, gần giống với châu Âu để xây dựng khu nghỉ mát, trạm điều dưỡng, toàn quyền Paul Doumer viết một bức thư hỏi ý kiến của Yersin, và Yersin đã trả lời là cao nguyên Lang Biang. Tháng 3 năm 1899, Yersin cùng toàn quyền Doumer thực hiện một chuyến đi lên cao nguyên Lang Biang và chuyến đi này có ý nghĩa quyết định về việc thành lập một trạm điều dưỡng ở đây.

Ngày 1 tháng 11 năm 1899, Doumer ký nghị định thành lập ở Trung Kỳ tỉnh Đồng Nai Thượng (Haut-Donnai) và hai trạm hành chính được thiết lập tại Tánh Linh và trên cao nguyên Lang Biang. Đó có thể được xem là văn kiện chính thức thành lập trạm điều dưỡng trên cao nguyên Lang Biang – tiền thân của thành phố Đà Lạt sau này.
Ngày 20 tháng 4 năm 1916, vua Duy Tân đã ra đạo dụ thành lập thị tứ, tức thị xã (centre urbain) Đà Lạt, tỉnh lị tỉnh Lâm Viên. Đạo dụ này được Khâm sứ J.E. Charles chuẩn y ngày 30 tháng 5 năm 1916.
Trong hai thập niên 1900 và 1910, người Pháp đã xây dựng hai tuyến đường từ Sài Gòn và từ Phan Thiết lên Đà Lạt. Hệ thống giao thông thuận lợi giúp Đà Lạt phát triển nhanh chóng. Vào năm 1893, vùng Đà Lạt ngày nay hầu như hoang vắng. Đến đầu năm 1916, Đà Lạt vẫn còn là một khu thị tứ nhỏ với độ 8 căn nhà gỗ tập trung hai bên bờ dòng Cam Ly, chỉ có 9 phòng khách sạn phục vụ du khách, đến cuối năm này mới nâng lên được 26 phòng. Cuối năm 1923, đồ án thiết kế đầu tiên hoàn thành, Đà Lạt đã có 1.500 dân.
Ngày 31 tháng 10 năm 1920, Toàn quyền Đông Dương ra nghị định chuẩn y đạo dụ ngày 11 tháng 10 cùng năm của vua Khải Định về việc thành lập thành phố (commune- thành phố loại 2) Đà Lạt cùng với việc tỉnh Đồng Nai Thượng được tái lập. Nhằm biến Đà Lạt thành một trung tâm nghỉ mát ở Đông Dương, Nha giám đốc các sở nghỉ mát Lâm Viên và du lịch Nam Trung Kỳ được thành lập. Đứng đầu thành phố là một viên Đốc lý, đại diện của Toàn quyền Đông Dương. Năm 1928 chuyển tỉnh lỵ tỉnh Đồng Nai Thượng về Đà Lạt. Năm 1936 một Hội đồng thành phố được bầu ra. Năm 1941, Đà Lạt trở thành tỉnh lỵ tỉnh Lâm Viên (Lang Bian) mới tái lập. Thị trưởng Đà Lạt kiêm chức Tỉnh trưởng tỉnh Lâm Viên.
Trong thời gian Thế chiến thứ hai, những người Pháp không thể về chính quốc nên họ tập trung lên nghỉ ở Đà Lạt. Nhiều nhu cầu rau ăn, hoa quả của người Pháp cũng được Đà Lạt cung cấp.
Ngày 10 tháng 11 năm 1950, Bảo Đại ký Dụ số 4-QT/TD ấn định địa giới thị xã Đà Lạt.
Theo Địa phương chí Đà Lạt (Monographie de Dalat), năm 1953, thị xã Đà Lạt là thủ phủ của Hoàng triều Cương thổ, có diện tích là 67 km², dân số: 25.041 người.
Sau Hiệp định Genève năm 1954, dân số Đà Lạt tăng nhanh bởi lượng người di cư từ Bắc vào Nam. Dưới chính quyền miền Nam, Đà Lạt được phát triển như một trung tâm giáo dục và khoa học.
Năm 1957, Đà Lạt trở thành tỉnh lỵ tỉnh Tuyên Đức. Thị xã Đà Lạt có 10 khu phố.
Nhiều trường học và trung tâm nghiên cứu được thành lập: Viện Đại học Đà Lạt (1957), Trường Võ bị Quốc gia Đà Lạt (1959), Thư viện Đà Lạt (1960), trường Đại học Chiến tranh Chính trị (1966), trường Chỉ huy và Tham mưu (1967)... Các công trình phục vụ du lịch được tiếp tục xây dựng và sửa chữa, hàng loạt biệt thự do các quan chức Sài Gòn, nhiều chùa chiền, nhà thờ, tu viện được xây dựng... Đà Lạt cũng là một điểm hấp dẫn với giới văn nghệ sĩ.
Sau 1975, với sự rút đi của quân đội và bộ máy chính quyền miền Nam, nhưng được bổ sung bởi lượng cán bộ và quận đội miền Bắc, dân số Đà Lạt ổn định ở con số khoảng 86 ngàn người. Du lịch Đà Lạt hầu như bị lãng quên.
Những năm cuối thập niên 1980, đầu thập niên 1990, hàng loạt khách sạn, nhà hàng được sửa chữa, nhiều biệt thự được đưa vào phục vụ du lịch... Đà Lạt trở thành một thành phố du lịch quan trọng của Việt Nam với nhiều lễ hội được tổ chức.
Cuối năm 1975 Bộ Chính trị Ban Chấp hành Trung ương Đảng Cộng sản Việt Nam quyết định Đà Lạt sẽ trở thành 1 trong 4 thành phố trực thuộc Trung ương, nhưng ngay sau đó đã điều chỉnh lại. Tháng 2 năm 1976 Chính phủ cách mạng lâm thời Cộng hòa miền Nam Việt Nam ra Nghị định hợp nhất tỉnh Tuyên Đức, tỉnh Lâm Đồng và thị xã Đà Lạt thành tỉnh Lâm Đồng. Thị xã Đà Lạt trở thành thành phố tỉnh lỵ tỉnh Lâm Đồng.
Ngày 18-9-1976, Hội đồng Chính phủ ban hành Nghị định số 164-CP về việc thành lập và xác định vị trí của một số đơn vị hành chính thuộc các tỉnh, thành phố vùng mới giải phóng. Theo đó, thành lập thành phố Đà Lạt trực thuộc tỉnh Lâm Đồng. Từ đây, công cuộc xây dựng và cải tạo thành phố Đà Lạt có sự thay đổi về quy mô, quan điểm và phương pháp thiết kế...


Ngày 27-10-1994, Thủ tướng Chính phủ ký Quyết định số 620/TTg phê duyệt Đồ án quy hoạch tổng thể xây dựng thành phố Đà Lạt và vùng phụ cận đến năm 2010 và xác định: Đà Lạt là trung tâm du lịch-nghỉ dưỡng của vùng, cả nước và quốc tế; tỉnh lỵ của tỉnh Lâm Đồng; trung tâm văn hóa, dịch vụ, đầu mối giao lưu kinh tế của tỉnh và là một trung tâm đào tạo, nghiên cứu khoa học của cả nước.
Ngày 24-7-1999, Thủ tướng Chính phủ ký Quyết định số 158/1999/QĐ-TTg công nhận thành phố Đà Lạt tỉnh Lâm Đồng là đô thị loại II.
Đà Lạt được công nhận đô thị loại 1: ngày 24/3/2009
Nếu ai có nhu cầu muốn tìm hiểu sâu hơn, có thể tìm hiểu thông tin tại trang:http://www.dalat.gov.vn/web/books/diachidalat
Tổng hợp

Không có nhận xét nào:

Đăng nhận xét